Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động chính trị kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại mà Người còn là một nhà văn hoá lỗi lạc, một danh nhân văn hoá thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá mới Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nói riêng là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vẫn luôn là một điểm tựa tinh thần vững chắc. Đồng thời, với sức sống mãnh liệt, tự nó, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá đã và đang trở thành một bộ phận của nền văn hoá Việt Nam.
Nền văn hoá Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh có những đặc trưng cơ bản sau đây:
1. Thấm đẫm tính dân tộc, hiện đại và nhân văn Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Quan điểm này tiếp tục tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”. Theo Hồ Chí Minh, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá có gốc rễ, cội nguồn từ truyền thống văn hoá dân tộc, thể hiện tâm hồn, cốt cách, bản sắc của con người Việt Nam. Nền văn hoá ấy kế thừa truyền thống văn hoá của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống yêu nước thương nòi, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng; tinh thần nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất; tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất, mưu trí, gan dạ trong chống giặc ngoại xâm... Những truyền thống ấy không những phải được giữ gìn mà còn phải được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá hiện nay. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác giáo dục truyền thống lịch sử dân tộc. Người căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”[1]. Đồng thời Người yêu cầu “phải phát huy hết cốt cách dân tộc, phải lột cho hết tinh thần dân tộc, để cổ vũ đồng bào ta, để giáo dục con cháu ta”. Người phê phán mọi biểu hiện tôn sùng văn hoá ngoại. Theo Người, càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin bao nhiêu càng phải coi trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ông bấy nhiêu. Người đòi hỏi phải giữ gìn và phát huy những vốn văn hoá quý báu của dân tộc, loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống tinh thần của nhân dân vừa kế thừa những truyền thống tốt đẹp vừa phê phán, loại bỏ các tập tục cổ hủ lạc hậu. Với quan điểm dân tộc hiện đại, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hoá phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”[2]; “Con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức[3]. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là một nền văn hoá “mở”. Một mặt, nó kế thừa và phát huy những giá trị trong truyền thống dân tộc, mặt khác nó tự làm giàu mình bằng việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho nền văn hoá mới ở Việt Nam vừa mang những đặc trưng phản ánh cốt cách, bản sắc và truyền thống văn hoá dân tộc, vừa bắt nhịp được với hơi thở của cuộc sống hiện đại, phù hợp với trình độ khoa học và trình độ văn minh mà nhân loại đã đạt được.
2. Gắn chặt với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hoá không tách rời kinh tế và chính trị, một mặt, nó chịu sự chi phối của kinh tế và chính trị nhưng mặt khác, văn hoá có tác động trở lại to lớn đến kinh tế và chính trị. Chính vì thế Người coi văn hoá nghệ thuật cũng là mặt trận, và anh chị em nghệ sỹ là những chiến sỹ trên mặt trận ấy. Người khẳng định: “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức thì văn nghệ sĩ cũng mất tự do. Văn nghệ sĩ muốn có tự do thì phải tham gia cách mạng”[4]. Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sỹ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng... Về sáng tác, thì cần thấu hiểu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân. Như thế, mới bày tỏ được cái tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy”[5]. Người viết tiếp: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta, văn hoá gánh một phần rất quan trọng”[6]. “Văn hoá cũng như chính trị, kinh tế và tín ngưỡng, đạo đức đều được phát triển tự do. Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh chị em văn hoá và trí thức phải làm cũng như là những chiến sỹ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”[7]. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự nghiệp xây dựng văn hoá của nước nhà, và nhiều lần Người đã nói rằng: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá”. Tư tưởng đó của Người thể hiện rõ quan điểm duy vật, phát triển toàn diện đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
3. Sâu sắc tính nhân dân (tính đại chúng) Hồ Chí Minh cho rằng: “Cái văn hoá mới này cần phải có tính khoa học, tính đại chúng, thì mới thuận với trào lưu tiến hoá của tư tưởng hiện đại. Nay nước ta đã được độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hoá hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân”[8]. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nền văn hoá mới bắt nguồn từ trong nhân dânsẽ “luôn luôn tìm tòi những con đường để làm sao có thể kể một cách chân thật hơn, chân thành hơn cho nhân dân nghe về những mối lo âu và suy nghĩ của nhân dân”[9]. Người luôn uốn nắn, phê bình lối nói, lối viết và lối sáng tác xa rời nhân dân, không phù hợp với trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân. Đồng thời, Người đề cao vai trò sáng tạo văn hoá nghệ thuật của nhân dân và coi những sáng tác của nhân dân như “những viên ngọc quý”. Người thường căn dặn những người làm công tác văn hoá, nghệ thuật phải đi sâu vào thực tế cuộc sống, hiểu được tâm tư tình cảm, nguyện vọng, thị hiếu... của nhân dân để từ đó các sáng tác của mình phục vụ được nhân dân một cách tốt nhất. Tư tưởng đó của Người thể hiện quan điểm vì con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước.
Ngày nay, trước những biến động của tình hình thế giới và khu vực đang tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá của dân tộc, một mặt, chúng ta tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hoá tiên tiến, khoa học, đại chúng. Mặt khác, chúng ta cũng kiên quyết xoá bỏ những hủ tục, tàn dư, những sản phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài. Đặc biệt, để văn hoá tăng thêm sức mạnh dân tộc, góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thì mỗi người dân chúng ta cần phải giữ gìn nền văn hoá Việt Nam luôn tiên tiến, đậm đà bản sắt dân tộc.
---------------------
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 3, tr 221 [2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 10, tr 60. [3] Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội 1981, tr 516. [4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tập 1, tr XX [5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 6, tr 368 [6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 5, tr 464. [7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 5, tr 131. [8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1993, Tập 3, tr 16. [9] Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội 1981, tr 515.
Tạp chí Xây Dựng Đảng